HCG là xét nghiệm được sử dụng thường quy để chẩn đoán xác định có thai hay không, theo dõi phát triển của thai nhi. HCG còn được sử dụng trong chẩn đoán, theo dõi hiệu quả điều trị ung thư tế bào mầm.
Xét nghiệm Beta HCG là gì?
HCG là chữ viết tắt từ cụm từ Human Chorionic Gonadotropin, được gọi là Kích tố sinh dục màng đệm của người (hCG) thuộc họ glycoprotein và gồm 2 tiểu đơn vị (chuỗi α và β) kết hợp tạo thành nội tiết tố nguyên vẹn. HCG được tiết ra trong quá trình hình thành nhau thai sau khi trứng rụng đã được thụ tinh và làm tổ. Vai trò của HCG báo hiệu cho tử cung biết hợp tử đã sẵn sàng làm tổ, ngăn trứng rụng theo chu kỳ và hình thành phản ứng của cơ thể người mẹ (ốm nghén).
Xét nghiệm HCG được thực hiện để kiểm tra nồng độ HCG trong máu hoặc nước tiểu. Một số xét nghiệm định lượng được chính xác mức độ HCG (xét nghiệm máu) và một số khác chỉ kiểm tra xem có sự tồn tại của hormone hay không (que thử nhanh nước tiểu).
Chỉ số nồng độ beta HCG trong máu và nước tiểu tăng là dấu hiệu đặc trưng để chẩn đoán việc có thai sớm, bởi vì sau khi trứng thụ tinh, nồng độ sẽ tăng gấp đôi cứ mỗi 24 – 72 giờ. Tuy nhiên, HCG không tăng mãi mà sẽ chạm mốc khoảng tuần thứ 8 – 10, sau đó giảm xuống và ổn định trong suốt thai kỳ.
Ý nghĩa của việc thực hiện xét nghiệm HCG
– Giúp thai phụ phát hiện mình có thai từ giai đoạn sớm, trong khi lúc này mới chỉ có những dấu hiệu ban đầu như ốm nghén, chậm kinh ở phụ nữ. Dựa trên lượng hóc môn tăng cao vượt ngưỡng sinh lý, có thể kết luận người phụ nữ mang thai. Để kiểm tra chính xác có thai hay chưa, cần thực hiện lần hai sau 48 – 72 giờ để theo dõi diễn biến của nồng độ HCG nhằm loại trừ các trường hợp gây dương tính giả.
– Xác định số thai: dựa vào nồng độ beta HCG có thể dự đoán được một người mang thai đơn hay đa thai. Ở giai đoạn sớm, khi nồng độ HCG tăng rất cao so với mức cùng độ tuổi thai thì có thể nghi ngờ đa thai. Nhưng phải cần kết hợp với siêu âm thai để kết luận được.
– Phát hiện sớm thai ngoài tử cung.
– Phát hiện thai lưu, cần kết hợp với siêu âm thai.
– Tầm soát hội chứng Down của thai nhi.
– Phát hiện các bệnh lý liên quan đến tế bào nuôi ở nhau thai hoặc các bệnh lý ở tử cung, buồng trứng.
– Dự đoán tuổi thai nhi một cách tương đối.
Khi nào nên thực hiện xét nghiệm HCG?
Có thể thực hiện xét nghiệm HCG từ 7-10 ngày sau khi quan hệ, lúc này, đa số trường hợp đều có chỉ số beta HCG tăng cao nếu thụ thai thành công. Tuy nhiên, để kết quả có tính chính xác hơn thì phụ nữ nên làm xét nghiệm này sau khi trễ kỳ kinh.
Trong quá trình mang thai, phụ nữ vẫn có thể tiến hành xét nghiệm này ở nhiều lần trong giai đoạn đầu thai kì. Không chỉ giúp kiểm soát tốt tình trạng thai kỳ mà xét nghiệm còn giúp phát hiện những bất thường để có cách xử trí sớm.
Ưu điểm của xét nghiệm tại Genome
Hệ thống sử dụng: Cobas E411, Roche, Thụy Sỹ
Thời gian thực hiện: 1-2 giờ
Loại mẫu: Máu tĩnh mạch, 2ml máu, Ống đỏ serum
Mẫu sau khi lấy: bảo quản 20 –25℃ trong vòng 4 giờ hoặc 2 – 8℃ trong vòng 24 giờ.
Phương pháp xét nghiệm an toàn.
Giúp sớm phát hiện các dị tật, bệnh lý bẩm sinh ở thai nhi hoặc thai lưu, thai ngoài tử cung nhằm sớm có cách xử trí kịp thời.
Phát hiện ung thư từ trứng hay tinh trùng (ung thư tế bào mầm), chẳng hạn như ung thư buồng trứng hoặc ung thư tinh hoàn, trường hợp này bác sĩ sẽ chỉ định thêm các xét nghiệm khác.
Những điều cần lưu ý trước và sau khi xét nghiệm
Không cần thiết phải nhịn ăn trước khi làm xét nghiệm, không xét nghiệm khi đang sử dụng thuốc có HCG.
Không nên hút thuốc hoặc dùng các loại đồ uống có chất kích thích như cafe, trà, rượu bia, nước ngọt… trước khi xét nghiệm ít nhất là 12 giờ.
Xét nghiệm HCG thường chính xác nhất vào buổi sáng. Các chỉ số sinh hóa của máu sẽ cho kết quả không chính xác nếu không thực hiện những lưu ý trên.
Yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm:
Xét nghiệm quá sớm: Khi hàm lượng beta HCG còn quá ít sẽ dẫn đến hiện tượng âm tính giả.
Mẫu xét nghiệm không đạt yêu cầu cũng có khả năng làm sai lệch kết quả xét nghiệm.
Một số thuốc hoặc thực phẩm có thể làm tăng hoặc giảm hàm lượng beta HCG trong cơ thể.